Bơm Surfactant ngoại sinh giải pháp hiệu quả trong điều trị suy hô hấp sơ sinh do thiếu chất hoạt động bề mặt

Hội chứng nguy kịch hô hấp sơ sinh (RDS) là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ non tháng, chủ yếu do thiếu hoặc bất hoạt surfactant – một chất hoạt động bề mặt giúp duy trì độ giãn nở của phế nang. Bơm surfactant ngoại sinh là một kỹ thuật điều trị quan trọng, giúp phục hồi chức năng hô hấp, hạn chế tổn thương phổi và cải thiện tiên lượng sống cho trẻ sơ sinh.

Kỹ thuật này được chỉ định chủ yếu trong các trường hợp: Để duy trì SpO2 từ 90 đến 95% (PaO2 > 50mmhg) cần:

  • Trẻ  <29 tuần:

+ Thở NCPAP với FiO2 ≥30%.

+ Cần đặt nội khí quản thở máy với FiO2 ≥30%.

+ Các trẻ có tuổi thai cực thấp từ dưới  26 tuần: xem xét khả năng cứu sống và cho Surfactant khi cần thở áp lực dương với FiO2 bất kì.

  • Trẻ ≥29 tuần: (Xquang có hình ảnh bệnh màng trong, cần chẩn đoán phân biệt với suy hô hấp không do thiếu surfactant):

+ Cần thở NCPAP với FiO2 ≥40% hoặc a/APO2 < 0,22.

+ Cần đặt nội khí quản thở máy với MAP ≥7 cmH2O và FiO2 >30%.

Các trường hợp viêm phổi hít phân su, bệnh màng trong do sinh mổ chưa chuyển dạ, hoặc hội chứng nguy kịch hô hấp cấp do viêm phổi bẩm sinh, nếu có bằng chứng thiếu surfactant.

Bơm surfactant có thể thực hiện qua 3 phương pháp chính:

1) Qua ống nội khí quản khi trẻ cần thở máy.

2) Kỹ thuật INSURE (Intubation - SURfactant - Extubation).

3) Phương pháp ít xâm lấn như LISA hoặc SALMA.

Trước thủ thuật, trẻ được hút sạch đờm, gắn monitor theo dõi SpO₂, nhịp tim, nhịp thở, và chuẩn bị thuốc surfactant đúng liều. Trong quá trình bơm, nhân viên y tế theo dõi sát các chỉ số sinh tồn, đảm bảo thuốc phân tán đều trong phổi, tránh tắc nghẽn đường thở và giảm SpO₂. Với kỹ thuật bơm surfactant ngoại sinh, trẻ có thể được rút ống nội khí quản sớm, giảm thời gian thở máy và biến chứng phổi mạn tính.

Bơm surfactant được thực hiện bởi bác sĩ chuyên khoa sơ sinh hồi sức tích cực tại đơn vị NICU, với sự hỗ trợ của điều dưỡng chuyên khoa sơ sinh. Trang thiết bị hiện đại như máy thở xâm lấn và không xâm lấn, hệ thống hút kín, máy X-quang tại giường và hệ thống theo dõi khí máu động mạch là điều kiện không thể thiếu.

Sau thủ thuật, trẻ được tiếp tục theo dõi chặt chẽ tại phòng hồi sức sơ sinh: huyết động, hô hấp, tình trạng oxy hóa máu và đáp ứng với surfactant. Có thể cần lặp lại liều nếu triệu chứng suy hô hấp tái phát. Những biến chứng có thể gặp bao gồm tụt SpO₂, chậm nhịp tim, tràn khí màng phổi hoặc xuất huyết phổi, cần phát hiện sớm và xử trí kịp thời.

Hiện nay, kỹ thuật bơm surfactant ngoại sinh đã được triển khai tại nhiều trung tâm Sơ sinh lớn, bao gồm Bệnh viện Phụ sản thành phố Cần Thơ. Đây là bước tiến quan trọng trong can thiệp sơ sinh, không chỉ cứu sống hàng ngàn trẻ non tháng mỗi năm mà còn góp phần nâng cao chất lượng sống về lâu dài cho trẻ.